YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG VIÊM DA TIẾT BÃ
Tóm tắt
Mục
tiêu: Xác định một số yếu tố nguy cơ trong viêm da
tiết bã (VDTB) và mối liên quan của các yếu tố này với tình trạng của bệnh
Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 69 bệnh nhân
bệnh da đến khám tại phòng khám dịch vụ của BVDL Tp. HCM từ tháng 5/07 đến
8/07.
Số liệu được phân tích bằng phần
mềm SPSS version 11.0, Test λ2 với khoảng tin cậy 95% và tính tỷ suất chênh
(OR: Odds ratios).
Kết quả: 66.7% bệnh nhân nam tuổi từ 14 –
78 tuổi, nghề nghiệp phân bố khá đồng đều giữa nhóm lao động chân tay (39.1%)
và nhóm lao động trí óc (37.7%) và đa số sống tại thành phố (68.1%). 71% bệnh
nhân VDTB tái phát, bệnh nhân bị tái phát nhiều nhất là khi độ ẩm, khí hậu thay
đổi (42.9%), thương tổn chủ yếu ở mặt và da đầu và 46.4% bệnh nhân ngứa nhiều.
3.1% bệnh nhân soi tìm nấm có M.furfur tại thương tổn. Có mối liên hệ giữa yếu
tố chuyển mùa và số lần tái phát. Những người tái phát trên 5 lần, thì nguy cơ
tái phát khi chuyển mùa của những người này cao gấp 6.6 lần so với những người
bị tái phát từ 5 lần trở xuống (p<0.05). Những yếu tố khác chưa thấy có ảnh
hưởng khác nhau có ý nghĩa giữa hai nhóm bệnh nặng và nhẹ cũng như trong nhóm
bị tái phát khác nhau.
Kết luận: Căn nguyên VDTB chưa biết rõ nên
việc điều trị còn gặp khó khăn, đặc biệt hay tái phát nên nhiều yếu tố đã được
nghiên cứu để tìm những yếu tố nào có thể tăng khả năng tiên đóan tái phát của
bệnh. Nghiên cứu này cho thấy yếu tố chuyển mùa làm tăng nguy cơ tái phát VDTB.
Chúng tôi hy vọng tương lai sẽ nghiên cứu với cở mẫu lớn hơn và chi tiết hơn để
có thể thấy thêm một số mối liên hệ khác trên bệnh nhân VDTB
từ đó có thể giúp đề
ra một số giải pháp nhằm hạn chế tái phát và độ nặng của bệnh.
I GIỚI THIỆU
Viêm da tiết
bã là bệnh mạn tính và phổ biến,
ảnh hưởng từ 2% - 10% ở người lớn, chủ yếu từ 20 – 50 tuổi. Bệnh nhiều hơn ở
nam, ở những người có rối loạn hệ thống thần kinh trung ương (như bệnh
Parkinson, liệt tòan thân,…) và người suy giảm miễn dịch. Bệnh thường ảnh hưởng
nhiều đến da đầu, chân mày, tai, nếp má mũi, nách, bìu và bẹn.
Căn nguyên của viêm da tiết bã (VDTB) hiện không rõ. Thay đổi chức năng
của hệ thống miễn dịch có thể là tác nhân gây bệnh.10 Vùng nhiều bã
nhờn của cơ thể thuận lợi cho các nấm men ưa mỡ như Malassezia furfur (trước đây gọi Pityrosporum ovale) phát triển. Vai trò của M furfur trong viêm da tiết bã không được biết rõ, tuy nhiên nó
được thừa nhận rộng rãi là yếu tố làm nặng lên và cũng không nhất thiết phải
tìm thấy yếu tố này2,7,11. Có giả thuyết là sự bất động của những
bệnh nhân có bệnh lý thần kinh có thể có vai trò trong việc làm nặng lên của
bệnh do gây tăng tiết bã thuận lợi cho M
furfur phát triển dễ dàng8.
Viêm da tiết
bã là vấn đề xã hội đáng quan
tâm, hàng năm trên thế giới người ta đã tiêu tốn nhiều tiền cho dầu gội đầu và
những chất khác để lọai trừ vấn đề này9.
Theo số liệu khảo sát của the National
Ambulatory Medical Care Survey (NAMCS) trên bệnh nhân ngọai trú của các bác sĩ
không thuộc chính quyền liên bang tại Mỹ từ 1996-1999 cho thấy viêm da
tiết bã
là 5577171 đối tượng4 những số liệu thu thập đã phần nào cho
thấy mức độ nhiều của bệnh tại Mỹ. Theo số liệu thống kê tại bệnh viện Da Liễu
thì tỷ lệ viêm da tiết bã trên lượt bệnh
nhân đến khám bệnh da trong năm 2006 là 1.8% (7696/432510) và 9 tháng 2007 là
2.1% (7326/343571), đây là bệnh gây khó chịu cho bệnh nhân và cả bác sĩ do tỷ
lệ tái phát cao và còn nhiều vấn đề bàn cải trong điều trị. Trên thế giới đã và
đang có nhiều nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau của viêm da tiết bã để hiểu
rõ hơn về căn nguyên của bệnh cũng như lựa chọn giải pháp điều trị tối ưu cho
tình trạng này. Mục đích của nghiên cứu này nhằm xác định một số yếu tố nguy cơ
liên quan đến tình trạng tái phát và độ nặng của viêm da tiết bã ở bệnh nhân
đến khám tại khoa khám bệnh bệnh viện Da Liễu thành phố Hồ Chí Minh (BVDL Tp.
HCM ), từ đó có thể giúp đề ra một số giải pháp nhằm hạn chế tái phát và độ nặng
của bệnh.
II MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu tổng quát
Xác định một số yếu tố nguy cơ trong viêm da
tiết bã và mối liên quan của các yếu tố này với tình trạng của bệnh
2. Mục tiêu chuyên biệt
- dịch tể và lâm sàng
của bệnh nhân viêm da tiết bã tại BVDL
- đặc tính ở bệnh nhân
bị tái phát viêm da tiết bã
- Mối liên hệ giữa một số
yếu tố và số lần tái phát
- Mối liên hệ giữa
một số yếu tố và tình trạng viêm da tiết bã
III ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2. Dân số nghiên cứu: Bệnh nhân bệnh da đến
khám tại phòng khám dịch vụ của BVDL Tp. HCM từ tháng 5/07 đến 8/07.
3. Phương pháp chọn mẫu:
* Tiêu chuẩn chọn vào: Bệnh nhân viêm da tiết
bã đến khám tại phòng khám dịch vụ của BVDL Tp. HCM đồng ý tham gia vào nghiên
cứu và có khả năng nghe – hiểu – trả lời câu hỏi.
* Tiêu chuẩn loại:
Đối tượng không đồng
ý tham gia nghiên cứu.
4. Phương pháp thu
thập số liệu:
* Cách thu thập số
liệu:
- Khám và chẩn đoán
viêm da tiết bã dựa vào các dấu hiệu lâm sàng. (Thương tổn da màu trắng xám
hoặc đỏ cam thường kèm với dát và sẩn tróc vảy bã hoặc trắng khô với kích thước
khác nhau, bờ giới hạn khá rõ, mày dính và ở các nếp, trên da đầu thường gọi
gàu. Hình tròn hoặc đa cung, rải rác ở mặt và thân, lan tỏa ở da đầu. ..)
- Độ nặng của viêm da
tiết bả dựa vào lâm sàng: nhẹ (vảy ít, ở rìa da đầu); nặng (vảy lan rộng, dính
cứng, thành mảng).
- Xét nghiệm: cạo tìm
nấm ở da đầu, trên da
- Phỏng vấn trực tiếp
đối tượng dựa vào bảng thu thập số liệu.
* Công cụ thu thập số
liệu:
- Bảng thu thập số
liệu: hỏi bệnh sử, khám lâm sàng và kết quả cạo tìm nấm ...
- Người thu thập số
liệu: một số BS tại phòng khám dịch vụ BV Da Liễu Tp. HCM
5. Phương pháp xử lý
và phân tích số liệu:
- Nhập và phân tích
số liệu bằng phần mềm SPSS version 11.0
- Test λ2 để kiểm định mức ý nghĩa thống kê của mối liên
quan giữa các biến, với khoảng tin cậy 95% (CI 95%), và tính tỷ suất chênh (OR:
Odds ratios).
IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
69 bệnh nhân VDTB đủ
tiêu chuẩn được thu nhận tại khoa khám bệnh theo yêu cầu của Bệnh Viện Da Liễu
(BVDL) từ tháng 5/07 đến 8/07, những bệnh nhân không được đưa vào nghiên cứu
gồm những bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn
và cả những bệnh nhân VDTB không do chúng tôi khám.
Bảng 1 cho thấy bệnh
nhân nam chiếm đa số 66.7%, tuổi từ 14 – 78 tuổi, trung bình 36.9 tuổi, nghề
nghiệp phân bố khá đồng đều giữa nhóm lao động chân tay (39.1%) và nhóm lao
động trí óc (37.7%) và đa số sống tại thành phố (68.1%). 71% bệnh nhân VDTB tái
phát, có người mới bị tái phát một lần có người bị nhiều lần, thậm chí trên 20
lần và thời gian bị VDTB cũng khác nhau từ vài tháng đến 12 năm, trung bình 2.4
năm, tháng khởi phát bệnh đầu tiên thường vào mùa mưa (từ tháng năm đến tháng
mười). 15.9% bệnh nhân hiện tại có bệnh khác kèm theo nhưng không phải nhóm
bệnh lý thần kinh, 4/5 bệnh nhân VDTB là thể nhẹ, chủ yếu thương tổn ở mặt và
da đầu và 46.4% bệnh nhân ngứa nhiều. Tỷ lệ rất thấp (3.1%) bệnh nhân soi tìm
nấm có M.furfur tại thương tổn.
Bảng 1: Đặc điểm dịch tể và lâm sàng của bệnh nhân
viêm da tiết bã tại BVDL
Đặc tính
|
n
|
%
|
Giới tính
Nam
Nữ
|
46
23
|
66.7
33.3
|
Nghề nghiệp
Già, thất nghiệp
Lao động chân tay
Lao động trí óc
|
16
27
26
|
23.2
39.1
37.7
|
Địa chỉ
Thành phố Hồ Chí Minh
Tỉnh
|
47
22
|
68.1
31.9
|
Tháng khởi phát
Mùa
nắng (tháng 11-4)
Mùa mưa (tháng
5-10)
Không nhớ
|
18
29
22
|
26.1
42
31.9
|
Lâm sàng
Nhẹ
Nặng
|
55
14
|
79.7
20.3
|
Vị trí thương tổn
Đầu và mặt
Mặt
Đầu, mặt và da
Mặt và tai
Đầu và tai
Đầu
|
27
16
15
7
2
2
|
39.1
23.2
21.7
10.1
2.9
2.9
|
Ngứa
Không ngứa hoặc ít
Nhiều
|
37
32
|
53.6
46.4
|
Cạo tìm nấm
Đầu (n= 46)
Da (n= 63)
|
0
2
|
0
3.1
|
Bệnh kèm theo (không
phải bệnh lý thần kinh)
|
11
|
15.9
|
Tái phát viêm da
tiết bả
|
49
|
71
|
Bảng 2 cho thấy đa số
bệnh nhân tái phát vào mùa nắng (34.7%),
bệnh nhân bị tái nhiều nhất là khi độ ẩm, khí hậu thay đổi (42.9%), kế
đến do chuyển mùa 32.7%, do stress 28.6% và do tình trạng mệt mỏi của cơ thể
24.5%. Ở đây chưa thấy bệnh nhân tái phát sau chấn thương, 18.8 % bệnh nhân tái
phát khi đang dùng những lọai thuốc khác và yếu tố di chuyển đường xa hoặc đi
du lịch trên bệnh nhân tái phát thấp (6.1%).
Bảng 2: Một số đặc tính ở bệnh nhân bị tái phát viêm da tiết bã (n = 49*)
Đặc tính
|
n
|
%
|
Tổng trạng mệt mỏi
|
12
|
24.5
|
Thay đổi độ ẩm, khí hậu
|
21
|
42.9
|
Di chuyển đường xa, du
lịch
|
3
|
6.1
|
Chuyển mùa
|
16
|
32.7
|
Chấn thương
|
0
|
0
|
Stress
|
14
|
28.6
|
Thuốc đang dùng
|
13
|
18.8
|
Tháng tái phát
Mùa nắng (tháng
11-4)
Mùa mưa (tháng 5-10)
Thường xuyên
Bất kỳ
Không nhớ
|
17
12
4
3
13
|
34.7
24.5
8.2
6.1
26.5
|
* Khảo sát trên những bệnh nhân bị tái phát trong những
người thu nhận vào nghiên cứu
Khi khảo sát mối liên hệ
giữa một số yếu tố về dịch tể và lâm sàng với tình trạng tái phát, bảng 3 cho
thấy ở những người tái phát trên 5 lần thì nữ (80%) nhiều hơn nam (55.9%) nhưng
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê, giữa các nhóm tuổi tỷ lệ người tái
phát trên 5 lần cũng không khác nhau giữa các nhóm và điều này cũng thấy trong
yếu tố nghề nghiệp và địa chỉ. Khi xét yếu tố chuyển mùa thì thấy có sự khác biệt
rõ giữa nhóm bị tái phát trên 5 lần (45.2%) với nhóm bị tái phát từ 5 lần trở
xuống (11.1%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0.05). Mặc dù các
yếu tố tổng trạng mệt mỏi, thay đổi độ ẩm hoặc khí hậu, stress thấy ở nhóm tái
phát trên 5 lần bị ảnh hưởng nhiều hơn so với nhóm tái phát từ 5 lần trở xuống
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Giữa hai nhóm tái phát ít và
nhiều không có khác nhau về ảnh hưởng của các yếu tố như di chuyển đường xa, đi
du lịch và thuốc đang dùng.
Bảng 3: Mối liên hệ giữa một số yếu tố và số lần tái
phát (n = 49*)
Yếu tố
|
Tái phát > 5 lần
|
Tái phát ≤ 5 lần
|
P
|
OR
|
95% CI
|
||
n
|
%
|
n
|
%
|
||||
Phái
Nam
Nữ
|
19
12
|
55.9
80
|
0.107
|
||||
Tuổi
14 – 24
25 – 35
35 – 45
> 45
|
10
11
3
7
|
71.4
68.8
42.9
58.3
|
0.575
|
||||
Nghề nghiệp
Già, thất nghiệp
Lao động chân tay
Lao động trí óc
|
7
12
12
|
70
63.2
60
|
0.866
|
||||
Địa chỉ
TP. HCM
Tỉnh
|
19
12
|
61.3
66.7
|
0.707
|
||||
Tổng trạng mệt mỏi
|
10
|
32.3
|
2
|
11.1
|
0.097
|
||
Thay đổi độ ẩm, khí
hậu
|
15
|
48.4
|
6
|
33.3
|
0.305
|
||
Di chuyển đường xa, du
lịch
|
2
|
6.5
|
1
|
5.6
|
0.9
|
||
Chuyển mùa
|
14
|
45.2
|
2
|
11.1
|
0.014
|
6.59
|
1.3 -33.7
|
Stress
|
10
|
32.3
|
4
|
22.2
|
0.453
|
||
Thuốc đang dùng
|
6
|
19.4
|
4
|
22.2
|
0.810
|
* Khảo sát trên những bệnh nhân bị tái phát trong những
người thu nhận vào nghiên cứu
Nghiên cứu này cho thấy
tình trạng VDTB nặng xảy ra ở nữ nhiều hơn nam, nhóm tuổi từ 25 – 35 tuổi bị
VDTB nặng nhiều nhất (31.6%), và điều này cũng thấy ở bệnh nhân lao động chân
tay và bệnh nhân ở tỉnh. Mặc dù tình trạng VDTB nặng nhiều nhất ở những nhóm bệnh
nhân này nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0.05), điều này
thấy trong bảng 4. Bảng 4 cũng cho thấy yếu tố chuyển mùa và stress trong nhóm
bệnh nặng bị ảnh hưởng nhiều hơn so với nhóm bệnh nhẹ nhưng sự khác biệt này cũng
không có ý nghĩa thống kê. Những yếu tố khác như tình trạng tái phát, tổng trạng
mệt mỏi, thay đổi độ ẩm hoặc khí hậu, di chuyển đường xa và đi du lịch không có
ảnh hưởng khác nhau giữa hai nhóm bệnh nặng và nhẹ.
Bảng 4: Mối liên hệ giữa một số yếu tố và tình trạng viêm
da tiết bã (n=69)
Yếu tố
|
VDTB nặng
|
VDTB nhẹ
|
p
|
||
n
|
%
|
n
|
%
|
||
Phái
Nam
Nữ
|
7
7
|
15.2
30.4
|
0.138
|
||
Tuổi
14 – 24
25 – 35
35 – 45
> 45
|
4
6
2
2
|
22.2
31.6
13.3
11.8
|
0.432
|
||
Nghề nghiệp
Già, thất nghiệp
Lao động chân tay
Lao động trí óc
|
3
7
4
|
18.8
25.9
15.4
|
0.625
|
||
Địa chỉ
TP. HCM
Tỉnh
|
8
6
|
17
27.3
|
0.324
|
||
Tái phát
|
11
|
78.6
|
38
|
69.1
|
0.485
|
Tổng trạng mệt mỏi
|
3
|
27.3
|
9
|
23.7
|
0.807
|
Thay đổi độ ẩm, khí
hậu
|
5
|
45.5
|
16
|
42.1
|
0.843
|
Di chuyển đường xa, du
lịch
|
1
|
9.1
|
2
|
5.3
|
0.641
|
Chuyển mùa
|
5
|
45.5
|
11
|
28.9
|
0.304
|
Stress
|
4
|
36.4
|
10
|
26.3
|
0.516
|
Thuốc đang dùng
|
2
|
18.2
|
8
|
21.1
|
0.385
|
V BÀN LUẬN và KẾT LUẬN
Điều chính yếu tìm thấy
trong nghiên cứu này là có mối liên hệ giữa yếu tố chuyển mùa và số lần tái
phát, bệnh nhân càng tái phát nhiều lần thì ảnh hưởng của yếu tố chuyển mùa
càng rõ. Những người tái phát trên 5 lần, thì nguy cơ tái phát khi chuyển mùa
của những người này cao gấp 6.6 lần so với những người bị tái phát từ 5 lần trở
xuống. Điều này cũng thấy trong nghiên cứu của Aditya Gupta khi ông nghiên cứu
về dịch tể VDTB tại Mỹ4 và trong một bài báo khác của Aditya K.
Gupta và cộng sự cũng ghi nhận bệnh xuất hiện ảnh hưởng bởi mùa như thương tổn
xấu đi trong suốt mùa đông ngược lại ánh nắng mặt trời dường như cải thiện các
biểu hiện lâm sàng của bệnh1.
Ngòai ra nghiên cứu còn
cho thấy nam bị VDTB nhiều gấp 2 lần nữ, điều này cũng phù hợp với y văn có thể
do ảnh hưởng của androgen lên đơn vị nang lông tuyến bã3.
Nguyên nhân VDTB chưa
biết, nhưng có nhiều yếu tố được đưa ra có thể đóng góp vào sự phát triển của
rối lọan này, trong đó yếu tố nấm men Malassezia
xem như đi kèm với bệnh chứ không đóng vai trò gây bệnh như trong lang ben3.
Trong nghiên cứu này tỷ lệ M.furfur rất thấp 3.1%, do chúng tôi chỉ soi tươi
không cấy. Malassezia có 9 chủng khác nhau và phân bố cũng không giống nhau
trên các vùng của cơ thể cũng như trong các bệnh khác nhau và còn tùy thuộc
chất lượng của cấy, mặc khác với mẫu nhỏ nên nghiên cứu này chưa nói lên được
điều gì về mối liên hệ của nấm men Malassezia
với tình trạng viêm da tiết bã.
Nghiên cứu này còn nhiều
hạn chế, thứ nhất mẫu quá nhỏ nên một số bệnh khác đi kèm với viêm da tiết bã
như bệnh Parkinson, tổn thương cột sống5 chưa phát hiện trong nghiên
cứu này. Mặt khác một số yếu tố như tổng trạng mệt mỏi, thay đổi độ ẩm hoặc khí
hậu và stress thấy có ảnh hưởng khác nhau giữa hai nhóm tái phát trên 5 lần và
tái phát từ 5 lần trở xuống nhưng mẫu nhỏ nên chưa thấy được sự khác biệt có ý
nghĩa giữa 2 nhóm này.
Thứ hai là một số thông
tin ghi nhận trong bảng thu thập số liệu có tính chủ quan, lại chỉ tập trung
trong một số nhỏ bệnh nhân nên chưa có tính đại diện cho tình trạng viêm da
tiết bả tại thành phố Hồ Chí Minh.
Mặc dù có những hạn chế
trên nhưng nghiên cứu này cũng cho thấy nam bị nhiều hơn nữ và yếu tố chuyển
mùa ảnh hưởng nhiều đến tình trạng tái phát của bệnh nhân. Viêm da tiết bã, gàu
ảnh hưởng đến bề ngòai của bệnh nhân gây cho họ không ít mặc cảm và phần nào
mất tự tin trong công việc và tự nó cũng tạo ra một stress mới và tạo thuận lợi
cho viêm da tiết bã tái phát. Khi chuyển mùa có thể có một số thay đổi về tình
trạng miễn dịch, dinh dưỡng, môi trường và lối sống nên ở thời điểm này bệnh nhân
hay bị tái phát càng dễ tái phát hơn. Từ đó trong điều trị viêm da tiết bã ngoài
những can thiệp về thuốc chúng ta cần tham vấn để bệnh nhân hiểu biết rõ về
VDTB và tự họ có thể điều chỉnh phần nào để tránh những xáo trộn về dinh duỡng,
lối sống, tình trạng miễn dịch khi chuyển mùa.
Viêm da tiết bã là
bệnh mạn tính và phổ biến, ảnh hưởng từ 2% - 10% ở người lớn, chủ yếu từ 20 –
50 tuổi, họ là những lao động chính của xã hội nên cũng là một vấn đề mà xã hội
quan tâm. Căn nguyên chưa biết rõ nên việc điều trị còn gặp khó khăn, đặc biệt
hay tái phát nên nhiều yếu tố đã được nghiên cứu để tìm những yếu tố nào có thể
tăng khả năng tiên đóan của bệnh. Trong nghiên cứu này cho thấy yếu tố chuyển
mùa làm tăng nguy cơ tái phát VDTB của những người hay tái phát. Chúng tôi hy
vọng tương lai sẽ nghiên cứu với cở mẫu lớn hơn và chi tiết hơn để có thể thấy
thêm một số mối liên hệ khác trên bệnh nhân viêm da tiết bã tại thành phố Hồ
Chí Minh giúp có thể hạn chế tình trạng tái phát.
Cảm ơn
Các tác giả chân thành
cảm ơn Khoa khám bệnh, phòng Kế Hoạch Tổng
hợp và Khoa Xét Nghiệm của Bệnh Viện Da Liễu Tp. HCM, đã giúp đở và cung cấp số
liệu cho chúng tôi trong nghiên cứu này.
Các tác giả chân thành
cảm ơn phòng nghiệp vụ Y Sở Y Tế Tp. HCM
và Ban Giám Đốc Bệnh Viện Da Liễu Tp. HCM đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện
nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aditya K. Gupta, Roma Batra,. Dawson Skin diseases associated with Malassezia species. J Am Acad Dermatol 2004;51:785-98
2. A.K. Gupta, K. Nicol and R.
Batra, Role of antifungal agents in the treatment of seborrheic dermatitis, Am
J Clin Dermatol 5 (2004), pp. 417–422.
4. Aditya K. Gupta.
Epidemiology of seborrheic dermatitis as observed from the National Ambulatory Medical Care Survey
1990-1999. J Am Acad Dermatol
2007;52 (3), Supplement 1, March 2005, Page P103
5. C.L. Wilson
and M. Walshe, Incidence of seborrhoeic dermatitis in spinal injury patients. Br
J Dermatol 119 (1988), p. s48
6. Erin M. Warshaw, Ross Jon Wohlhuter, An Liu,
Sarah A. Zeller, Rachel A. Wenner, Sacharitha Bowers, Julie C. Schultz, H.
Irving Katz, Calogera L. McCormick and Anne Parneix-Spake. Results of a
randomized, double-blind, vehicle-controlled efficacy trial of pimecrolimus
cream 1% for the treatment of moderate to severe facial seborrheic
dermatitis, J
Am Acad Dermatol 2007;57:257-64
7. M.E. Parry and G.R. Sharpe,
Seborrheic dermatitis is not caused by an altered immune response to Malassezia
yeast, Br J Dermatol 139 (1998), pp. 254–263.
8. N.C. Cowley, P.M. Farr and
S. Shuster, The permissive effect of sebum in seborrheic dermatitis: an
explanation of the rash in neurological disorders, Br J Dermatol 122
(1990), pp. 71–76
9. PechereM, KrischerJ, RemondatC, et al.
Malassezia spp. carriage in patients with seborrhoeic dermatitis. J Dermatol 1999; 26:
558–561.
10. R.J. Hay and R.A.
Graham-Brown, Dandruff and seborrheic dermatitis: causes and management, Clin
Exp Dermatol 22 (1997), pp. 3–6.
11. S.H. Mirza, M.A. Khan and
M. Ahsan-ul-Haq, Role of Malassezia yeast (pityrosporum) in seborrheic
dermatitis (sd), J Coll Physicians Surg Pak 15 (2005),
pp. 771–773.
Khó chịu kinh khủng
Trả lờiXóa